Tại sao Việt Nam mở rộng cửa Tuy nhiên du khách quốc tế chưa đông?


PV: Việt Nam mở cửa du lịch từ ngày 15/3 với chính sách nhập cảnh thuận tiện, Tuy nhiên lượng khách quốc tế đến (inbound) còn thấp. Ông có nhận xét gì về điều này?   

PGS.TS Phạm Hồng Long: Việc Việt Nam mở cửa vào ngày 15/3 vừa qua là một chủ trương siêu chủ động và quyết liệt của Nhà nước đối với việc phục hồi và phát triển du lịch. Tuy nhiên, ở hiện nay lượng khách quốc tế đến Việt Nam chưa nhiều do một số nguyên nhân chủ yếu:

Trước hết, các thị trường gửi khách lớn đến Việt Nam trước đại dịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản, Nga, Malaysia… đa số chưa mở cửa, một số thị trường đã mở cửa Tuy nhiên do tâm lý e ngại nên lượng khách du lịch đi nước ngoài nói chung và đến Việt Nam nói riêng chưa nhiều.

Ngoài ra, có thể do nguyên nhân từ sự lạm phát giá cả toàn cầu do ảnh hưởng của xung đột giữa Nga và Ukraine, làm du khách phải giảm hoặc thắt chặt mức chi tiêu và nhu cầu đi du lịch Việt Nam, đặc biệt là du khách đến từ Nga và các quốc gia châu Âu.

Tháng 3 cũng là thời điểm cuối vụ của khách quốc tế đến Việt Nam (thông thường cao điểm khách du lịch quốc tế là tháng 10 năm trước đến tháng 3, tháng 4 năm sau). Hơn nữa, các hãng lữ hành quốc tế thường đặt dịch vụ từ sớm (một số tháng cho đến 1 năm), nên mở cửa vào ngày 15/3 cũng khó có thể đón được lượng khách quốc tế lớn ngay tại thời điểm mở cửa được.

PV: Cụ thể việc thiếu vắng nguồn khách quan trọng từ Đông Bắc Á sẽ ảnh hưởng đến thị trường inbound của Việt Nam như thế nào, thưa ông?

PGS.TS Phạm Hồng Long: Trước đại dịch, năm 2019, Việt Nam đón được gần 18,1 triệu lượt khách quốc tế. Ở thời điểm đó, tính chung cả thị trường khách Đông Bắc Á, gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), đã chiếm khoảng 66% lượng khách đến du lịch Việt Nam, đóng vai trò siêu lớn đối với tổng số lượng khách và doanh thu của ngành du lịch Việt Nam.

Qua 2 năm đại dịch SARS-CoV-2, các thị trường này đều đóng cửa. hiện nay mới chỉ có Hàn Quốc dần mở cửa trở lại với thị trường khách inbound và outbound. Vì vậy, quá trình phục hồi của ngành du lịch Việt Nam chắc chắn bị phụ thuộc nhiều vào thị trường này. Chỉ khi nào các thị trường nguồn mở cửa hoàn toàn trở lại thì tốc độ phục hồi của ngành du lịch Việt Nam mới có thể nhanh chóng được. Nếu không, ngành du lịch sẽ phục hồi siêu chậm và Việt Nam cần phải tìm kiếm các thị trường thay thế để tăng tốc độ phục hồi của ngành.

PV: Vậy theo ông những thị trường nào có thể giúp du lịch Việt Nam tăng tốc độ phục hồi?

PGS.TS Phạm Hồng Long: Tôi cho rằng thị trường Đông Nam Á vẫn chính là dòng khách tiềm năng nhất mà du lịch Việt Nam có thể tập trung thu hút, do khoảng cách về mặt địa lý, thuận tiện về giao thương, bên cạnh sự thoáng mát về mặt thủ tục xuất nhập cảnh (do họ được miễn thị thực). Các quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Phillipines đều là những quốc gia có dân số lớn và người ở những quốc gia này có nhu cầu đi du lịch ở các quốc gia lân cận như Việt Nam trở nên gia tăng. Du khách từ Singapore và Campuchia vốn dĩ là những thị trường ổn định, đến với Việt Nam siêu nhiều và chúng ta sẽ trở nên thu hút họ hơn. Làm tốt công tác tổ chức SEA Games 31 diễn ra vào tháng 5 đến đây sẽ cơ hội quảng bá tuyệt vời của du lịch Việt Nam đến thị trường khách Đông Nam Á.

Bên cạnh đó các thị trường khách lớn như châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan), Mỹ, Australia, Ấn Độ, Trung Đông cũng là thị trường tiềm năng du lịch Việt Nam cần tập trung khai thác. Đối với các thị trường này, công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam cộng thêm những chính sách ưu tiên về miễn thị thực vẫn chính là “chìa khóa” để khách lựa chọn đi du lịch Việt Nam.

PV: Tuy nhiên cũng không thể bỏ quên Đông Bắc Á, với Trung Quốc là thị trường du lịch lớn nhất thế giới mà mọi quốc gia đều quan tâm. Theo ông chúng ta phải chuẩn bị gì để đón đầu thị trường này?

PGS.TS Phạm Hồng Long: Từ góc độ cung du lịch, với nhu cầu siêu lớn của thị trường Đông Bắc Á, chúng ta vẫn phải chuẩn bị tốt những điều kiện để đón tiếp nguồn khách này, đặc biệt là những điều kiện về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, chuỗi cung ứng các dịch vụ du lịch (ăn uống, lưu trú, vận chuyển, vui chơi giải trí, mua sắm…) ở điểm đến, số lượng và chất lượng mặt hàng du lịch phục vụ du khách.

Sau 2 năm đại dịch, những điều kiện trên bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nguồn nhân lực thiếu hụt, đòi hỏi bổ sung do nhân lực dừng việc hoặc chuyển đổi nghề nghiệp không quay lại, đặc biệt là những lao động thành thạo tiếng Nhật và tiếng Hàn. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật bị xuống cấp cần tu bổ, nâng cấp; chuỗi cung ứng các dịch vụ du lịch bị đứt gẫy phải chắp nối để vận hành thông suốt… Tất cả những điều kiện này cần được phục hồi, làm mới thật tốt để đón tiếp du khách.

Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cần chủ động truyền thông mạnh mẽ về chiến dịch xúc tiến, quảng bá du lịch “Việt Nam – Trải nghiệm trọn vẹn” (Live fully in Vietnam) tại các quốc gia này thông qua các cơ quan ngoại giao (Đại sứ quán, lãnh sự quán) và thông qua kết nối của các công ty trực tiếp kinh doanh du lịch đối với thị trường khách này.

ở góc nhìn cầu du lịch, Việt Nam có thể thông qua các công ty du lịch để nhận xét lại nhu cầu đi du lịch, thời điểm mong muốn du lịch, và khả năng chi tiêu của thị trường khách này khi đến Việt Nam, từ đó có những kế hoạch chuẩn bị chi tiết và chu toàn.

PV: Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm gì từ cách làm du lịch của Thái Lan?

PGS.TS Phạm Hồng Long: Trước hết chúng ta phải học “tư duy định hướng du lịch” của người Thái. Du lịch là ngành dịch vụ số 1 ở Thái Lan và người Thái tập trung mọi chính sách ưu tiên cho phát triển du lịch.

Ngoài ra, chúng ta phải học cách người Thái “móc hầu bao” của du khách. Thái Lan thường hay có chính sách du lịch 3G (Get them in – Đón khách vào, Get their money – làm cho khách du lịch tiêu tiền, Get them out – tiễn khách về nước) siêu thành công dù du khách đến từ bất thị trường nào. Người Thái không e ngại để làm các tour du lịch giá rẻ – tour 0 đồng (kể cả với thị trường khách Trung Quốc), mà họ siêu giỏi trong việc làm cho du khách phải tự nguyện chi tiêu các mặt hàng và dịch vụ ngoài tour.

trong các năm gầy đây (trước đây đại dịch SARS-CoV-2), Thái Lan luôn nằm trong tốp 10 quốc gia đón khách du lịch hàng đầu thế giới, và tốp 4 quốc gia có thu nhập cao nhất từ du lịch. Số lượng khách du lịch quốc tế đến Thái Lan chỉ bằng một gần nửa (năm 2019 là 40 triệu) so với đến các quốc gia hàng đầu như Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ (năm 2019 lần lượt là 89, 84, 79 triệu) Tuy nhiên chi tiêu ngày khách ở Thái Lan siêu cao, thậm chí hơn nhiều so với các quốc gia trên để thấy người Thái làm du lịch tốt như thế nào. Để làm được điều này, thì người Thái xây dựng được chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch (ăn uống, lưu trú, vận chuyển, vui chơi giải trí, mua sắm, dịch vụ bổ sung…) có tính kết nối chặt chẽ và hoàn hảo.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên học sự nhạy bén và uyển chuyển của người Thái trong việc đưa ra các chiến dịch, chính sách tiên phong đón đầu xu hướng mặt hàng và tiêu dùng. Trước đây, họ nổi tiếng với chiến dịch “Bất ngờ Thái Lan” với 8 chủ đề – ATET (Amazing Thailand Eight Themes: Bất ngờ thiên đàng mua sắm, Bất ngờ hương vị Thái Lan, Bất ngờ nghệ thuật đời sống, Bất ngờ thể thao và giải trí, Bất ngờ di sản thế giới, Bất ngờ di sản nông nghiệp, Bất ngờ cửa ra vào), hay “Mảnh đất của những nụ cười” (Land of smiles), hay “Bếp ăn của Thế giới (Kitchen of the world)… Vào năm ngoái khi ngành du lịch nhiều nơi trên thế giới và khu vực vẫn “loay hoay” với đại dịch SARS-CoV-2, Thái Lan là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á mở cửa đón khách với chương trình “Hộp cát Phuket” ( Phuket Sandbox ) và đạt được những thành công nhất định./.

PV: Xin cám ơn ông./.


— Nguồn lấy từ: Cafef —



source https://goodstock.vn/tai-sao-viet-nam-mo-rong-cua-tuy-nhien-du-khach-quoc-te-chua-dong/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

4 loại cây “ăn thịt” với hình dáng cực xinh, giúp kiểm soát ruồi muỗi trong nhà

Đầu tư trong tương lai là vàng hay Bitcoin?

Ngành bia phải đến năm 2022 mới hồi phục hoàn toàn, 2 “ông lớn” Sabeco và Heineken vẫn miệt mài “chạy đua”